- Biết nhà ông K là chủ tiệm vàng ở thành phố H có con trai là C 5 tuổi đang học mẫu giáo nên T và S đã lái xe ô tô đến cổng trường mầm non nơi C đang học và chờ ở đó. Khi C tan học và đi ra cổng trường thì S đi đến bảo với C là mẹ C bảo S đón hộ C về nhà. Khi C đi theo S lên xe ô tô thì T lái xe ô tô đưa C đến tỉnh C. Tại đây, T và S điện thoại về nhà ông K yêu cầu ông K nộp 50 lượng vàng thì mới giao C cho gia đình ông K. Vậy T và S phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gì?
T và S có hành vi bắt cóc người khác (bắt cóc C) làm con tin với thủ đoạn lừa dối C lên xe ô tô để đưa C về nhà. Và mục đích của T và S là nhằm chiếm đoạt tài sản (chiếm đoạt 50 lượng vàng của ông K). Do đó hành vi của T và S đã cấu thành tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản nên T và S phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 169 Bộ luật hình sự năm 2015.
Theo quy định tại Điều 169 Bộ luật hình sự năm 2015 thì mặt khách quan của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thể hiện ở hành vi bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản. Bắt cóc là bắt người trái pháp luật. Người bị bắt cóc làm con tin là người bất kỳ (người lớn, người già, trẻ em, phụ nữ, nam giới… không phân biệt tuổi tác, giới tính, địa vị xã hội, nghề nghiệp…), thông thường người bị bắt cóc có quan hệ thân thiết với chủ tài sản như: vợ, chồng, con cái, bố mẹ… Hành vi bắt người trái pháp luật được thực hiện bằng những thủ đoạn khác nhau như: dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực, hoặc dụ dỗ, lừa dối, cho uống thuốc ngủ, thuốc mê, xịt ête… Những thủ đoạn này không có ý nghĩa về mặt định tội. Mục đích của việc bắt cóc con tin là nhằm chiếm đoạt tài sản, bởi lẽ bắt người làm con tin chính là một thủ đoạn nhằm chiếm đoạt tài sản.
Ngoài hành vi bắt cóc người làm con tin, người phạm tội còn có hành vi đe doạ người khác (cơ quan, tổ chức, hoặc người thân của con tin). Hành vi đe doạ ở đây là hành vi đe doạ dùng vũ lực gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của con tin (con tin sẽ bị giết, bị đánh đập, hành hạ…) nếu người người bị đe doạ không giao nộp tiền hoặc tài sản theo yêu cầu của người phạm tội. Cách thức đe doạ có thể là: chuyển thư, gọi điện thoại, nhắn tin qua người khác hoặc trực tiếp gặp người thân của con tin…
Cùng với việc đe doạ người khác, người phạm tội còn có thể có hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc có những hành vi, thủ đoạn khác đối với người bị bắt làm con tin (như: đánh, trói, bắt nhịn ăn, nhịn uống, làm nhục, đe doạ giết, doạ đem bán ra nước ngoài…) để người này sợ hãi mà yêu cầu cơ quan, tổ chức hoặc người thân của mình nộp tiền hoặc tài sản. Việc người phạm tội có đạt được mục đích đó hay không, có đe doạ được hay không không có ý nghĩa về mặt định tội. Tội phạm được coi là hoàn thành khi người phạm tội đã thực hiện xong hành vi bắt cóc và đe doạ để đòi tiền hoặc tài sản, không phụ thuộc vào việc họ đã chiếm đoạt được tiền hoặc tài sản hay không.
- Sau khi Đ lập kế hoạch chi tiết bắt cóc chị P nhằm chiếm đoạt tài sản thì Đ chuẩn bị ô tô, chuẩn bị ê te và chủ động rủ rê N, Q và T đồng ý thực hiện theo kế hoạch của Đ. N được phân công lừa dối chị P ra chỗ vắng người, còn Q được phân công xịt ête vào chị P rồi cả N và Q đưa chị P lên xe ô tô do T đợi sẵn rồi đưa chị P vào nhà nghỉ. Đ có nhiệm vụ chỉ huy chung việc bắt cóc và vạch kế hoạch giam giữ, hăm doạ, yêu cầu gia đình chị P phải nộp 300 triệu đồng thì chị P mới được thả. Sự việc bị phát hiện và Đ, N, Q và T bị bắt. Vậy Đ, N, Q và T phải bị kết án về tội gì và theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự?
Đ, N, Q và T có hành vi bắt cóc chị P nhằm chiếm đoạt tài sản (chiếm đoạt 300 triệu đồng của gia đình chị P) nên Đ, N, Q và T đã phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Hơn nữa giữa Đ, N, Q và T có sự cấu kết chặt chẽ để thực hiện tội phạm (có sự bàn bạc, chuẩn bị chu đáo, vạch trương trình kế hoạch phạm tội, phân công vai trò, vị trí của từng người), trong đó có người tổ chức, người thực hành nên hành vi phạm tội của Đ, N, Q và T là hành vi phạm tội có tổ chức, đây là tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 169 Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó, Đ, N, Q và T phải bị kết án về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 169 Bộ luật hình sự năm 2015.
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 169 Bộ luật hình sự thì:
Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có tổ chức được hiểu là hai hay nhiều người cố ý cùng thực hiện tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản mà giữa họ có sự cấu kết chặt chẽ để thực hiện tội phạm (có sự bàn bạc, chuẩn bị chu đáo, vạch trương trình kế hoạch phạm tội, phân công vai trò, vị trí của từng người), trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Tuy nhiên không phải vụ án bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có tổ chức nào cũng đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi giục hoặc người giúp sức nhưng nhất định phải có người thực hành và người tổ chức thì mới phạm tội có tổ chức.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Người tổ chức có thể có những hành vi như: khởi sướng việc phạm tội; vạch kế hoạch thực hiện tội phạm cũng như kế hoạch che giấu tội phạm; phân công trách nhiệm cho những người đồng phạm khác thực hiện tội phạm…
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội như: bắt cóc người làm con tin; canh giữ con tin, dụ dỗ, không chế, đe doạ con tin, yêu cầu nộp tiền hoặc tài sản đối với người thân của con tin, trực tiếp nhận tiền hoặc tài sản chuộc con tin…
Người xúi giục trong vụ án bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người đồng phạm khác thực hiện tội phạm.
Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản như: gọi điện thoại cho người thân của người bị bắt cóc, chuyển thư, tin nhắn cho người thân của người bị bắt cóc…
- T chở S bằng xe máy đang đi chơi trên đường thì T nhìn thấy chị A đang đi xe máy loại xe LX đeo túi xách ở bên vai, T bảo S giật túi xách của chị A để lấy tiền và điện thoại di động. Ngay khi S đồng ý thì T cho xe chạy áp sát xe của chị A và S đưa tay giật lấy túi xách của chị A, rồi T cho xe máy chạy trốn, chị A thấy vậy liền kêu cứu để các đồng chí Công an đang làm nhiệm vụ ở đó bắt giữ T và S. Vậy T và S có phạm tội không? Nếu có thì đó là tội gì?
T và S đã có hành vi công khai và nhanh chóng giật lấy tài sản của chị A (giật lấy chiếc túi bên trong có điện thoại di động của chị A), làm chị A bị bất ngờ nhưng liền ngay đó chị A vẫn nhìn thấy T và S có hành vi giật túi xách của mình ngay trước mặt. Như vậy, T và S đã phạm tội cướp giật tài sản được quy định tại Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015. Bởi theo quy định tại Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 thì mặt khách quan của tội cướp giật tài sản thể hiện ở hành vi công khai và nhanh chóng giật lấy tài sản của người khác về mình.
Công khai có nghĩa là diễn ra ngay trước mặt chủ sở hữu tài sản, cho phép chủ sở hữu tài sản có khả năng biết ngay khi hành vi cướp giật xảy ra. Người thực hiện hành vi cướp giật không có ý thức che giấu hành vi phạm tội của mình đối với chủ sở hữu tài sản và những người khác.
Tính chất công khai của hành vi cướp giật là công khai với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản là bị giật chứ không phải công khai với chủ sở hữu về diện mạo của người cướp giật. Vì vậy, nếu người phạm tội thực hiện hành vi cướp giật vào ban đêm hay có những thủ đoạn làm cho chủ sở hữu không nhận được mặt như: đeo mặt nạ, hoá trang… thì hành vi phạm tội vẫn là hành vi cướp giật.
Nhanh chóng có nghĩa là ngay tức khắc, diễn ra rất nhanh làm cho chủ sở hữu tài sản không có phản xạ để giữ lại được tài sản của mình. Nhanh chóng được thể hiện qua hành vi nhanh chóng chiếm đoạt (giật tài sản), nhanh chóng tẩu thoát… Hành vi giật tài sản tài sản một cách nhanh chóng đã tạo ra yếu tố bất ngờ đối với chủ sở hữu tài sản, làm cho người này không có khả năng giữ được tài sản của mình.
Để thực hiện hành vi giật tài sản, người phạm tội có thể sử dụng nhiều thủ đoạn khác nhau như: lợi dụng chủ sở hữu tài sản không chú ý rồi bất ngờ giật tài sản, lợi dụng chủ sở hữu tài sản vướng mắc, không có khả năng đuổi bắt hoặc giằng lại tài sản để giật tài sản hay dùng thủ đoạn chen lấn, xô đẩy người sở hữu tài sản để người này không chú ý đến tài sản rồi giật tài sản và tẩu thoát…
Hậu quả của tội cướp giật tài sản trước hết là những thiệt hại về tài sản, ngoài ra còn có những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ hoặc những thiệt hại khác.
Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội giật được tài sản từ người khác, kể cả trường hợp người phạm tội bỏ lại tài sản đã cướp giật được để tẩu thoát.
- Hội đồng P tổ chức trao trả tiền đền bù cho một số hộ dân trong thôn K bị lấy đất ruộng để làm đường. Khi Hội đồng P gọi tên Nguyễn Văn T là người được nhận tiền đền bù đến để nhận tiền thì Nguyễn Văn T chưa có mặt. Trong khi đó Hoàng Đình T đang có mặt ở đó chơi và tưởng là gọi mình nên đã đến chỗ Hội đồng P thì ngay lúc đó Hội đồng P đã đưa cho Hoàng Đình T 20 triệu đồng. Sau khi trao trả tiền thì Hội đồng P mới phát hiện là đã trao trả nhầm tiền đền bù cho Hoàng Đình T nên Hội đồng P đã đến nhà Hoàng Đình T đề nghị T trả lại số tiền 20 triệu đồng nhưng Hoàng Đình T kiên quyết không trả. Vậy P có phạm tội không? Nếu có thì đó là tội gì
Theo quy định tại Điều 176 Bộ luật hình sự năm 2015 thì mặt khách quan của tội chiếm giữ trái phép tài sản được thể hiện ở hành vi chiếm giữ trái phép tài sản khi người phạm tội có được tài sản do bị giao nhầm hoặc do mình tìm được hay nhặt được (bắt được).
Người phạm tội có được tài sản do bị người khác giao nhầm. Người phạm tội hoàn toàn không có thủ đoạn nào để bên giao tài sản tưởng nhầm mà giao tài sản cho mình, nếu người phạm tội có thủ đoạn gian dối để bên giao tài sản nhầm giao tài sản cho mình thì đó là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Tìm được tài sản là trường hợp người phạm tội tìm được tài sản mà việc tìm kiếm đó là trái phép. Nếu việc tìm kiếm đó được phép hoặc Nhà nước không cấm thì tài sản tìm được thuộc sở hữu của người tìm được nên không có hành vi chiếm giữ trái phép tài sản.
Bắt được (nhặt được) tài sản là trường hợp nhặt được tài sản bị rơi, tài sản bị quên.
Không trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp là hành vi cố tình giữ, chiếm hữu, sử dụng hoặc đã định đoạt tài sản do bị giao nhầm, do tìm được, bắt được (nhặt được) khi đã có yêu cầu nhận lại tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Nếu chưa có yêu cầu nhận lại tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản thì chưa cấu thành tội phạm này.
Hành vi chiếm giữ trái phép tài sản chỉ cấu thành tội phạm khi tài sản đó phải có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên đến dưới 200.000.000 đồng, di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hóa bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, bắt được, sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định của pháp luật.
Như vậy, trong tình huống trên thì Hoàng Đình T không có hành vi lừa dối nào mà lại được Hội đồng P giao nhầm 20 triệu đồng. Nhưng khi Hội đồng P yêu cầu Hoàng Đình T trao trả lại 20 triệu đồng đã được giao nhầm đó thì T kiên quyết không trả. Hành vi đó của P là hành vi chiếm giữ trái phép tài sản. Do vậy, Hoàng Đình T đã phạm tội chiếm giữ trái phép tài sản được quy định tại Điều 176 Bộ luật hình sự năm 2015.
- Sau khi V mua xe ô tô trị giá 900 triệu đồng thì V thuê Q lái xe cho V. Khi gia đình Q có đám cưới ở quê thì Q đã hỏi mượn xe ô tô của V và được V đồng ý. Sau đó Q lái xe về quê thì P tưởng là xe của Q nên đã thuê Q chở cho P 20 đầu đĩa DVD đến tỉnh H với số tiền thuê là 1 triệu đồng. Khi Q dùng xe ô tô của V chở thuê cho P thì đã đâm vào cột điện ria đường làm hỏng xe của V với số tiền sửa chữa là 50 triệu đồng. Vậy hành vi của Q sử dụng xe ô tô của V để chở thuê cho P có phải là hành vi phạm tội không?
Theo quy định tại Điều 177 Bộ luật hình sự thì mặt khách quan của tội sử dụng trái phép tài sản được thể hiện ở hành vi sử dụng trái phép tài sản. Hành vi sử dụng trái phép tài sản là hành vi tự ý khai thác giá trị sử dụng của tài sản, khác thác lợi ích do tài sản đem lại, mặc dù người phạm tội không phải là chủ sở hữu đối với tài sản đó. Sau khi đã khai thác giá trị sử dụng, khai thác lợi ích do tài sản đem lại, người phạm tội sẽ trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu mà không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản.
Hành vi sử dụng trái phép tài sản chỉ cấu thành tội phạm nếu tài sản sử dụng trái phép đó có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên gây hậu quả nghiêm trọng hoặc người có hành vi sử dụng trái phép tài sản đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm
Như vậy, Q có hành vi sử dụng xe ô tô có giá trị 500 triệu đồng của V để chở đầu đĩa thuê cho P lấy tiền thuê là 1 triệu đồng mà không được phép của V và việc chở thuê đó đã gây ra hậu quả nghiêm trọng (làm hỏng xe của V với số tiền sửa chữa là 100 triệu đồng). Hành vi đó của Q chính là hành vi sử dụng trái phép tài sản. Do vậy Q đã phạm tội sử dụng trái phép tài sản được quy định tại Điều 177 Bộ luật hình sự năm 2015.
- Do có mẫu thuẫn từ trước nên khi thấy xe máy của C có giá trị 10 triệu đồng để ở ria đường và C đang ở trong quán ăn thì T đã dùng bật lửa châm vào bình xăng xe của C làm xe bị cháy hoàn toàn. Vậy T phạm tội gì và theo Điều nào của Bộ luật hình sự?
Theo quy định tại Điều 178 Bộ luật hình sự năm 2015 thì hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là hành vi làm cho tài sản bị mất giá trị sử dụng hoặc làm giảm đáng kể giá trị sử dụng của tài sản.
Tài sản bị mất giá trị sử dụng là tài sản không còn hoặc khó có khả năng khôi phục lại. Hành vi hủy hoại (làm cho tài sản bị mất giá trị sử dụng) có thể được thực hiện thông qua hành động như đập, phá, đốt cháy, dùng thuốc nổ, hóa chất… hoặc không hành động như bắt buộc phải bảo dưỡng máy theo định kỳ nhưng cố tình không làm, dẫn đến máy móc không có khả năng sử dụng.
Làm giảm đáng kể giá trị sử dụng của tài sản là làm cho tài sản bị giảm đáng kể giá trị sử dụng và tài sản đó vẫn có khả năng khôi phục được (có thể khôi phục lại như cũ nhưng cũng có thể chỉ khôi phục lại được một phần).
Hậu quả của hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản là giá trị hoặc giá trị sử dụng của tài sản bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng. Thiệt hại gây ra do hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản phải từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng trở lên thì người có hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, trong tình huống trên thì T có hành vi hủy hoại tài sản của C (dùng bật lửa châm vào bình xăng của C làm xe bị cháy hoàn toàn nên không thể khôi phục lại được) và tài sản (xe máy) của C có giá trị là 20 triệu đồng. Hành vi đó của T chính là hành vi hủy hoại tài sản, do đó T đã phạm tội hủy hoại tài sản được quy định tại Điều 169 Bộ luật hình sự năm 2015.
- Khi T đưa sổ tiết kiệm của mình cho H là cán bộ Ngân hàng Đ để yêu cầu rút toàn bộ 50 triệu đồng thì H không nhìn kỹ nên tưởng nhầm T lĩnh 500 triệu đồng, do đó đã trả cho T 500 triệu đồng. Khi nhận được 500 triệu đồng thì T đã sang Cộng hòa Séc để cư trú cùng toàn bộ số tiền 500 triệu đồng đã nhận được. Vậy H có phạm tội không? Nếu có thì đó là tội gì?
Do H không nhìn kỹ số tiền mà T yêu cầu rút là 50 triệu đồng trong sổ tiết kiệm của T nên đã tưởng nhầm là T yêu cầu rút 500 triệu đồng và H đã trả cho T 500 triệu đồng. Hành vi đó của H là hành vi thiếu trách nhiệm (trách nhiệm của H là trách nhiệm phải kiểm tra kỹ sổ tiết kiệm, số tiền T yêu cầu rút nhưng H đã không làm hết trách nhiệm) và hành vi thiếu trách nhiệm đó của H đã gây ra hậu quả nghiêm trọng (bị thất thoát 450 triệu đồng, đó là thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước mà H có trách nhiệm quản lý). Do vậy H đã phạm tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước được quy định tại Điều 179 Bộ luật hình sự năm 2015.
Theo quy định tại Điều 179 Bộ luật hình sự thì thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định về quản lý, sử dụng, bảo vệ tài sản của Nhà nước để mất mát, hư hỏng, lãng phí gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước do mình trực tiếp quản lý. Những quy định có thể là quy định thuộc lĩnh vực kinh tế, tài chính, những quy định về ghi sổ, thu, chi, thanh toán hoặc những quy định về kỹ thuật như quy tắc bảo dưỡng, vận hành…
Mất mát tài sản là để cho tài sản của Nhà nước thoát khỏi sự kiểm soát, quản lý của người có trách nhiệm trực tiếp trong công tác quản lý tài sản của Nhà nước. Cũng được xem là mất mát nếu tài sản đó bị hủy hoại mà không thể sử dụng lại được.
Hậu quả của tội phạm này là thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước. Thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước chính là giá trị tài sản bị thiệt hại do hành vi thiếu trách nhiệm của người có nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài sản gây ra.
Hành vi thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước chỉ cấu thành tội phạm nếu gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên.
- H là công nhân công ty giầy da Đ lấy trộm một đôi giầy của công ty Đ, rồi buộc từng chiếc giầy vào ống chân của H, sau đó phủ ống quần lên và đi về. Khi ra đến cổng bảo vệ của công ty Đ, thì K phát hiện H giấu đôi giầy trong ống quần, K yêu cầu H vào phòng bảo vệ thì lập tức H bỏ chạy, thấy thế K đuổi theo và túm được tay H để giữ H lại, liền lúc đó H rút dao trong người ra đâm vào tay K để cố giữ bằng được đôi giầy. Vậy H phạm tội gì và theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự?
Theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 thì tình tiết hành hung để tẩu thoát trong tội trộm cắp tài sản được hiểu là trường hợp sau khi đã trộm được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt hoặc đã bị bắt đã có hành vi dùng vũ lực đối với chủ sở hữu hoặc đối với người đã bắt giữ để người này không dám đuổi bắt hoặc không thể bắt giữ được nhằm để tẩu thoát.
Người phạm tội hành hung đối với người đuổi bắt (có thể là chủ sở hữu tài sản bị trộm cắp hoặc là người khác) nhằm mục đích tẩu thoát. Nhưng nếu người phạm tội sau khi đã trộm cắp được tài sản mà bị đuổi bắt hoặc đã bị chủ sở hữu tài sản bị trộm cắp hay người khác bắt giữ nhưng cố tình giữ bằng được tài sản đã trộm cắp bằng cách hành hung người đuổi bắt hoặc người đang bắt giữ thì ngườiphạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản. Trong trường hợp này, khoa học luật hình sự gọi là chuyển hoá từ tội trộm cắp sang tội cướp tài sản (hay còn gọi là đầu trộm đuôi cướp).
Như vậy, H là người trộm cắp tài sản bị K phát hiện thì đã bỏ chạy, K đuổi theo thì H đã hành hung K (rút dao trong người đâm vào tay K) nhưng H hành hung K không phải để tẩu thoát mà để giữ bằng được tài sản đã trộm cắp (đôi giầy). Do vậy H đã phạm tội cướp tài sản theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.
9.Vì cần tiền để đánh bạc nên A và K rủ nhau đi cướp điện thoại di động của các đôi trai gái chơi ở công viên. Khi đi A mang theo một khẩu súng K54 và đưa cho K. Khi ra đến công viên, A và K thấy C và S đang ngồi tâm sự ở ghế đá, K dí súng K54 vào C và S bảo đưa điện thoại di động, vì quá sợ hãi nên C và S đã đưa điện thoại di động cho A và K. Vậy A và K bị truy cứu trách nhiệm về tội gì và theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự?
A và K có hành vi cướp tài sản (cướp điện thoại di động của C và S) nên A và K đã phạm tội cướp tài sản. Hơn nữa A và K đã sử dụng vũ khí (súng K54) để cướp tài sản, đây là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 2015. Do vậy A và K đã phạm tội cướp tài sản với tình tiết định khung “sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác” được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015.
Vũ khí được quy định trong điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự bao gồm: vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao, súng săn và vũ khí thô sơ.
Vũ khí quân dụng bao gồm: các loại súng trường, súng ngắn, súng liên thanh; các loại pháo, dàn phóng, bệ phóng tên lửa, súng cối, hoá chất độc và nguồn phóng xạ; các loại đạn, bom, mìn, lựu đạn, ngư lôi, thuỷ lôi, vật liệu nổ quân dụng, hoả cụ và vũ khí khác dùng cho mục đích quốc phòng – an ninh.
Vũ khí thể thao bao gồm: các loại súng trường, súng ngắn thể thao chuyên dùng các cỡ; các loại súng hơi, các loại vũ khí khác dùng trong luyện tập, thi đấu thể thao và các loại đạn dùng cho các loại súng thể thao nói trên.
Vũ khí thô sơ bao gồm: dao găm, kiếm, giáo, mác, đinh ba, đại đao, mã tấu, quả đấm bằng kim loại hoặc chất cứng, cung, nỏ, côn các loại.
Phương tiện nguy hiểm là những vật mà tính năng, tác dụng của nó có chứa đựng tính nguy hiểm, có khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của con người như: các loại dao (dao bầu, dao nhọn, dao quắm, dao rựa, dao phát bờ…); các loại chất độc, chất cháy (ête, thuốc mê, thuốc ngủ, axít, chất phóng xạ…).
Thủ đoạn nguy hiểm là những cách thức, phương pháp, thủ đoạn có tính nguy hiểm như: dùng dây xiết cổ nạn nhân; dùng thuốc độc để đầu độc; dìm nạn nhân xuống nước; dùng dây, gậy gỗ đặt ngang qua đường để người đi đường qua vướng vào ngã để cướp tài sản…
- Công ty công nghiệp BM là doanh nghiệp chuyên sản xuất máy móc, thiết bị công nghiệp phục vụ nông nghiệp có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động. Công ty đã xin được giấy phép sản xuất cho việc xản xuất thiết bị tại trụ sở chính của mình đặt tại tỉnh Bắc Ninh. Năm 2015, doanh nghiệp này dự định phát triển mạnh thị trường máy công nghiệp phục vụ nông nghiệp tại các tỉnh phía Nam. Cụ thể, trong quý 2 năm 2015, Công ty sẽ mở một nhà trưng bày sản phẩm kiêm kho chứa sản phẩm tại tỉnh Đồng Tháp. Doanh nghiệp băn khoan liệu mình có phải làm thủ tục gì liên quan tới việc khai báo an toàn lao động khi mở nhà trưng bày sản phẩm kiểm kho chứa sản phẩm này không.
Theo Điều 29, Luật an toàn, vệ sinh lao động năm 2015 quy định lập phương án bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động khi xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo công trình, cơ sở để sản xuất, sử dụng, bảo quản, lưu giữ máy, thiết bị, vật tư, chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động như sau:
– Trong hồ sơ trình cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo công trình, cơ sở để sản xuất, sử dụng, bảo quản, lưu giữ máy, thiết bị, vật tư, chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động, chủ đầu tư, người sử dụng lao động phải có phương án bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động đối với nơi làm việc của người lao động và môi trường.
– Phương án bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động phải có các nội dung chủ yếu sau đây:
+ Địa điểm, quy mô công trình, cơ sở;
+ Liệt kê, mô tả chi tiết các hạng mục trong công trình, cơ sở;
+ Nêu rõ những yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại, sự cố có thể phát sinh trong quá trình hoạt động;
+ Các biện pháp cụ thể nhằm loại trừ, giảm thiểu yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại; phương án xử lý sự cố kỹ thuật gây mất an toàn, vệ sinh lao động nghiêm trọng, ứng cứu khẩn cấp.”
Như vậy, cho dù đã đăng ký an toàn lao động đối với khu vực sản xuất tại trụ sở chính của mình tại tỉnh Bắc Ninh, song khi mở nhà trưng bày kiêm kho chứa sản phẩm mới tại tỉnh Đồng Tháp, Công ty công nghiệp BM vẫn phải xin cấp giấy phép mới cho việc xây dựng nhà trưng bày kiêm kho chứa hàng này và phải có phương án bảo đảm an toàn lao động đối với khu nhà trưng bày mới này. Cụ thể, phương án bảo đảm an toàn lao động phải có các nội dung:
+ Địa điểm, quy mô công trình, cơ sở;
+ Liệt kê, mô tả chi tiết các hạng mục trong công trình, cơ sở;
+ Nêu rõ những yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại, sự cố có thể phát sinh trong quá trình hoạt động;
+ Các biện pháp cụ thể nhằm loại trừ, giảm thiểu yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại; phương án xử lý sự cố kỹ thuật gây mất an toàn, vệ sinh lao động nghiêm trọng, ứng cứu khẩn cấp.
- Công ty công nghiệp BM là một nhà sản xuất máy công nghiệp phục vụ công nghiệp có uy tín ở Việt Nam. Năm 2015, công ty mở rộng phạm vi khách hàng ở các tỉnh phía Nam, trong số các khách hàng của công ty có Hợp tác xã Lúa Mới của tỉnh Đồng Tháp, đây là một hợp tác xã mới được thành lập theo mô hình mới của tỉnh. Cuối năm 2015, hợp tác xã quyết định mua của Công ty công nghiệp BM 10 máy gặt đập liên hợp cỡ vừa để nâng cao hiệu quả sản xuất. Ban chủ nhiệm Hợp tác xã Lúa Mới băn khoăn làm thế nào để bảo đảm chắc chắn các thiết bị mua của Công ty BM đáp ứng các tiêu chuẩn an toàn lao động.
Theo Điều 30, Luật an toàn, vệ sinh lao động năm 2015 quy định các loại máy, thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động phải có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, trong thời hạn sử dụng, bảo đảm chất lượng, phải được kiểm định theo quy định tại khoản 1 Điều 31 của Luật an toàn, vệ sinh lao động, trừ trường hợp luật chuyên ngành có quy định khác.
Khi đưa vào sử dụng hoặc không còn sử dụng, thải bỏ các loại máy, thiết bị, vật tư, chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động, tổ chức, cá nhân phải khai báo với cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) tại nơi sử dụng theo thẩm quyền quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 33 của Luật an toàn, vệ sinh lao động, trừ trường hợp luật chuyên ngành có quy định khác.
Trong quá trình sử dụng máy, thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm định kỳ kiểm tra, bảo dưỡng, lập và lưu giữ hồ sơ kỹ thuật an toàn máy, thiết bị, vật tư theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng.
Việc sử dụng chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động thực hiện theo quy định của pháp luật về hóa chất và pháp luật chuyên ngành.”
Điều 31, Luật an toàn, vệ sinh lao động năm 2015 quy định:
– Các loại máy, thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động phải được kiểm định trước khi đưa vào sử dụng và kiểm định định kỳ trong quá trình sử dụng bởi tổ chức hoạt động kiểm định kỹ thuật an toàn lao động.
– Việc kiểm định các loại máy, thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động phải bảo đảm chính xác, công khai, minh bạch.
– Chính phủ quy định chi tiết về cơ quan có thẩm quyền cấp, điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật, trình tự, thủ tục, hồ sơ cấp mới, cấp lại, gia hạn, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động của tổ chức hoạt động kiểm định kỹ thuật an toàn lao động; tiêu chuẩn kiểm định viên đáp ứng các yêu cầu kiểm định của đối tượng kiểm định; việc kiểm định máy, thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động.”
Như vậy, Hợp tác xã Lúa Mới khi mua máy gặt đập liên hợp của Công ty BM cần yêu cầu Công ty BM cung cấp chứng nhận kiểm định an toàn lao động đối với sản phẩm của mình. Chứng nhận kiểm định này phải được tổ chức kiểm định an toàn lao động có thẩm quyền cấp.
- Anh Nguyễn Văn K là thợ hàn tay nghề bậc cao. Tháng 6 năm 2015, cùng một lúc anh được 3 doanh nghiệp công nghiệp thuê làm thợ hàn cho các công trình của họ. Tất cả các hợp đồng này đều phải thực hiện trong vòng 6 tháng và thực hiện đồng thời, tất nhiên ngày làm việc phải được tính riêng cho từng doanh nghiệp. Anh K băn khoăn liệu anh có thể yêu cầu 3 doanh nghiệp này cùng đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho mình không?
Theo Điều 43, Luật an toàn, vệ sinh lao động năm 2015 quy định:
– Đối tượng áp dụng chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định tại Mục này là người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e và h khoản 1 Điều 2 và người sử dụng lao động quy định tại khoản 3 Điều 2 của Luật bảo hiểm xã hội.
– Trường hợp người lao động giao kết hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động thì người sử dụng lao động phải đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo từng hợp đồng lao động đã giao kết nếu người lao động thuộc đối tượng phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì người lao động được giải quyết chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo nguyên tắc đóng, hưởng do Chính phủ quy định.”
Như vậy, theo khoản 2, điều 43 trên đây, anh K hoàn toàn có quyền yêu cầu từng doanh nghiệp mà anh ký hợp đồng lao động phải đóng bảo hiểm tai nạn lao động riêng cho anh.
- Anh Nguyễn Lê V bị tai nạn lao động, sau khi được điều trị, anh thấy vẫn còn bị di chứng ảnh hưởng tới sức khỏe và khả năng lao động của mình. Anh V băn khoăn với tình trạng này, anh có được giám định lại mức suy giảm khả năng lao động hay không?
Trường hợp này, anh V được tiến hành giám định lại. Vì theo quy định của Luật an toàn vệ sinh lao động 2015:
“ Điều 47. Giám định mức suy giảm khả năng lao động
- Người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định hoặc giám định lại mức suy giảm khả năng lao động khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- a) Sau khi bị thương tật, bệnh tật lần đầu đã được điều trị ổn định còn di chứng ảnh hưởng tới sức khỏe;
- b) Sau khi thương tật, bệnh tật tái phát đã được điều trị ổn định;
- c) Đối với trường hợp thương tật hoặc bệnh nghề nghiệp không có khả năng điều trị ổn định theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế thì người lao động được làm thủ tục giám định trước hoặc ngay trong quy trình điều trị”.
- Chị Phạm Thị N bị tai nạn lao động làm suy giảm khả năng lao động là 10%. Chị nghe mấy người bạn nói trường hợp của chị sẽ được nhà nước trợ cấp, nhưng họ không cho chị biết cụ thể chị sẽ được trợ cấp như thế nào và mức tính là bao nhiêu?
Trường hợp của chị N thuộc trường hợp được trợ cấp 1 lần, theo Luật an toàn vệ sinh lao động, quy định cụ thể như sau:
– Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì được hưởng trợ cấp một lần.
– Mức trợ cấp một lần được quy định như sau:
+ Suy giảm 5% khả năng lao động thì được hưởng năm lần mức lương cơ sở, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 0,5 lần mức lương cơ sở;
+ Ngoài mức trợ cấp quy định tại điểm a khoản này, còn được hưởng thêm khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, từ một năm trở xuống thì được tính bằng 0,5 tháng, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng vào quỹ được tính thêm 0,3 tháng tiền lương đóng vào quỹ của tháng liền kề trước tháng bị tai nạn lao động hoặc được xác định mắc bệnh nghề nghiệp; trường hợp bị tai nạn lao động ngay trong tháng đầu tham gia đóng vào quỹ hoặc có thời gian tham gia gián đoạn sau đó trở lại làm việc thì tiền lương làm căn cứ tính khoản trợ cấp này là tiền lương của chính tháng đó.
- Anh Lê H (37 tuổi) là chồng của chị M (30 tuổi), anh H vừa qua đời sau 1 tai nạn lao động. Hoàn cảnh gia đình nhà anh H, chị M hiện đang rất khó khăn, vì chị M vừa sinh cháu lại không có công ăn việc làm, kinh tế trong nhà chỉ phụ thuộc vào thu nhập từ công việc của anh M. Mọi người nói với chị M rằng, chị sẽ được hưởng trợ cấp với tư cách thân nhân của người lao động chết do tai nạn lao động, chị M không biết như vậy đúng hay không?
Theo Điều 53 trợ cấp khi người lao động chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp: “Thân nhân người lao động được hưởng trợ cấp một lần bằng ba mươi sáu lần mức lương cơ sở tại tháng người lao động bị chết và được hưởng chế độ tử tuất theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Người lao động đang làm việc bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
– Người lao động bị chết trong thời gian điều trị lần đầu do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
– Người lao động bị chết trong thời gian điều trị thương tật, bệnh tật mà chưa được giám định mức suy giảm khả năng lao động.
Hồ sơ hưởng chế độ tử tuất trong trường hợp người lao động bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 111 của Luật bảo hiểm xã hội”.
Như vậy việc hưởng trợ cấp của chị M thuộc trường hợp được quy định ở trên.
- Ông Mai Văn Q muốn thực hiện các thủ tục làm hưởng chế độ bệnh nghề nghiệp và được hướng dẫn phải làm Hồ sơ. Tuy nhiên, cụ thể hồ sơ bao gồm những loại giấy tờ gì thì ông không được chỉ rõ:
Theo Luật an toàn vệ sinh lao động, nội dung này được quy định như sau:
– Sổ bảo hiểm xã hội.
– Giấy ra viện hoặc trích sao hồ sơ bệnh án sau khi điều trị bệnh nghề nghiệp; trường hợp không điều trị nội trú tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thì phải có giấy khám bệnh nghề nghiệp.
– Biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động của Hội đồng giám định y khoa; trường hợp bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp thì thay bằng Giấy chứng nhận bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp.
– Văn bản đề nghị giải quyết chế độ bệnh nghề nghiệp theo mẫu do Bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hành sau khi thống nhất ý kiến với Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.”
- Công ty xây dựng TL sử dụng 500 lao động thường xuyên cho các công trình xây dựng của mình trên khắp cả nước. Khi Luật an toàn, vệ sinh lao động mới được ban hành năm 2015, Công ty băn khoăn liệu mức đóng tối đa của công ty cho quỹ bảo hiểm tai nạn lao động của mình theo Luật mới này là bao nhiêu?
Theo Điều 44, Luật an toàn, vệ sinh lao động năm 2015 quy định:
– Người sử dụng lao động hằng tháng đóng tối đa 1% trên quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của người lao động quy định tại Điều 43 của Luật này vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
– Nguồn hình thành Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp bao gồm:
+ Khoản đóng thuộc trách nhiệm của người sử dụng lao động quy định tại khoản 1 Điều này;
+ Tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ theo quy định tại Điều 90 và Điều 91 của Luật bảo hiểm xã hội;
+ Các nguồn thu hợp pháp khác.
– Căn cứ vào khả năng bảo đảm cân đối Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, Chính phủ quy định chi tiết mức đóng vào quỹ quy định tại khoản 1 Điều này.”
Như vậy, theo khoản 1 điều này, Công ty xây dựng TL có nghĩa vụ đóng tối đa 1% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của người lao động của công ty cho quỹ bảo hiểm tai nạn lao động.
- Công ty xây dựng AB hiện đang thực hiện công trình xây dựng ở huyện Hàm Yên, tỉnh Lâm Đồng. Ngày 15/7/2015, công ty cử anh Nguyễn Văn T là kế toán đi lấy vật liệu xây dựng ở trong cùng huyện. Trên đường đi xe của công ty gặp tai nạn va chạm với một xe ô tô khác. Kết quả anh T bị thương gẫy tay. Anh T băn khoăn liệu mình có được hưởng bảo hiểm tai nạn lao động hay không?
Điều 45, Luật an toàn, vệ sinh lao động năm 2015 quy định người lao động tham gia bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được hưởng chế độ tai nạn lao động khi có đủ các điều kiện sau đây:
– Bị tai nạn thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Tại nơi làm việc và trong giờ làm việc, kể cả khi đang thực hiện các nhu cầu sinh hoạt cần thiết tại nơi làm việc hoặc trong giờ làm việc mà Bộ luật lao động và nội quy của cơ sở sản xuất, kinh doanh cho phép, bao gồm nghỉ giải lao, ăn giữa ca, ăn bồi dưỡng hiện vật, làm vệ sinh kinh nguyệt, tắm rửa, cho con bú, đi vệ sinh;
+ Ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động hoặc người được người sử dụng lao động ủy quyền bằng văn bản trực tiếp quản lý lao động;
+ Trên tuyến đường đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý;
– Suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị tai nạn quy định tại khoản 1 Điều này;
– Người lao động không được hưởng chế độ do Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp chi trả nếu thuộc một trong các nguyên nhân quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này.”
Theo điểm b, khoản 1, điều 45 thì anh T gặp tai nạn lao động khi đang đi thực hiện nhiệm vụ do người sử dụng lao động phân công nên được hưởng chế độ bảo hiểm tai nạn lao động.
- Xin hãy cho biết những tranh chấp về dân sự nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án?
Theo Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án gồm
– Tranh chấp về quốc tịch Việt Nam giữa cá nhân với cá nhân.
– Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản.
– Tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự.
– Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 30 của Bộ luật này.
– Tranh chấp về thừa kế tài sản.
– Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
– Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do áp dụng biện pháp ngăn chặn hành chính không đúng theo quy định của pháp luật về cạnh tranh, trừ trường hợp yêu cầu bồi thường thiệt hại được giải quyết trong vụ án hành chính.
– Tranh chấp về khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả thải vào nguồn nước theo quy định của Luật tài nguyên nước.
– Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai; tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng rừng theo quy định của Luật bảo vệ và phát triển rừng.
– Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật về báo chí.
– Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
– Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
– Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
– Các tranh chấp khác về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
- Xin hãy cho biết những yêu cầu nào về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án
Theo Điều 27 Bộ luật tố tụng dân sự quy định những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án gồm:
– Yêu cầu tuyên bố hoặc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
– Yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó.
– Yêu cầu tuyên bố hoặc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích.
– Yêu cầu tuyên bố hoặc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết.
– Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
– Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
– Yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án.
– Yêu cầu công nhận tài sản có trên lãnh thổ Việt Nam là vô chủ, công nhận quyền sở hữu của người đang quản lý đối với tài sản vô chủ trên lãnh thổ Việt Nam theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 470 của Bộ luật này.
– Yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản chung để thi hành án và yêu cầu khác theo quy định của Luật thi hành án dân sự.
– Các yêu cầu khác về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
- Xin hãy cho biết những tranh chấp nào về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án?
Theo Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sưn năm 2015 những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án gồm:
– Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; chia tài sản sau khi ly hôn.
– Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
– Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
– Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ.
– Tranh chấp về cấp dưỡng.
– Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
– Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp luật.
– Các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
- Xin hãy cho biết những yêu cầu nào về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án?
Theo Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án gồm:
– Yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật.
– Yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
– Yêu cầu công nhận thỏa thuận của cha, mẹ về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc công nhận việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
– Yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn.
– Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
– Yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.
– Yêu cầu công nhận thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã được thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa án.
– Yêu cầu tuyên bố vô hiệu thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.
– Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
– Yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
– Các yêu cầu khác về hôn nhân và gia đình, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
- Xin hãy cho biết những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án?
Theo Điều 30 bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án gồm:
– Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
– Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
– Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.
– Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
– Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
- Xin hãy cho biết những yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án gồm?
Theo Điều 31 Luật tố dụng dân sự năm 2015nNhững yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án gồm:
– Yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, nghị quyết của Hội đồng thành viên theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp.
– Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.
– Yêu cầu bắt giữ tàu bay, tàu biển theo quy định của pháp luật về hàng không dân dụng Việt Nam, về hàng hải Việt Nam, trừ trường hợp bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án.
– Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
– Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết kinh doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài.
– Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
- Xin hãy cho biết những tranh chấp nào về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án?
Theo Điều 32 Luật tố dụng dân sự năm 2015 những tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án gồm:
-Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động phải thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động mà hòa giải thành nhưng các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, hòa giải không thành hoặc không hòa giải trong thời hạn do pháp luật quy định, trừ các tranh chấp lao động sau đây không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải:
+ Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;
+ Về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;
+ Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động;
+ Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế, về bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về việc làm, về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động;
+ Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
– Tranh chấp lao động tập thể về quyền giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động theo quy định của pháp luật về lao động đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết mà tập thể lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định đó hoặc quá thời hạn mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện không giải quyết.
– Tranh chấp liên quan đến lao động bao gồm:
+ Tranh chấp về học nghề, tập nghề;
+ Tranh chấp về cho thuê lại lao động;
+ Tranh chấp về quyền công đoàn, kinh phí công đoàn;
+ Tranh chấp về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
– Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do đình công bất hợp pháp.
– Các tranh chấp khác về lao động, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
- Xin hãy cho biết những yêu cầu nào về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án?
Theo Điều 33 Luật tố dụng dân sự năm 2015 những yêu cầu về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án gồm:
– Yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể vô hiệu.
– Yêu cầu xét tính hợp pháp của cuộc đình công.
– Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định lao động của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định lao động của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
– Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết lao động của Trọng tài nước ngoài.
– Các yêu cầu khác về lao động, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
- Xin hãy cho biết thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức được pháp luật quy định như thế nào?
Theo Điều 34 Luật tố dụng dân sự năm 2015 Thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức gồm:
– Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.
– Quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này là quyết định đã được ban hành về một vấn đề cụ thể và được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Trường hợp vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định này thì phải được Tòa án xem xét trong cùng một vụ việc dân sự đó.
– Khi xem xét hủy quyết định quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án phải đưa cơ quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền đã ban hành quyết định tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền đã ban hành quyết định phải tham gia tố tụng và trình bày ý kiến của mình về quyết định cá biệt bị Tòa án xem xét hủy.
– Thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này được xác định theo quy định tương ứng của Luật tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
- Xin hãy cho biết Tòa án nhân dân cấp huyện có những thẩm quyền gì?
Theo Điều 35 Luật tố dụng dân sự năm 2015 thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện:
– Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:
+ Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này;
+ Tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật này;
+ Tranh chấp về lao động quy định tại Điều 32 của Bộ luật này.
– Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết những yêu cầu sau đây:
+ Yêu cầu về dân sự quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 6, 7, 8, 9 và 10 Điều 27 của Bộ luật này;
+ Yêu cầu về hôn nhân và gia đình quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 10 và 11 Điều 29 của Bộ luật này;
+ Yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 và khoản 6 Điều 31 của Bộ luật này;
+ Yêu cầu về lao động quy định tại khoản 1 và khoản 5 Điều 33 của Bộ luật này.
– Những tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này.
– Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam theo quy định của Bộ luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam.
- Xin hãy cho biết Tòa án nhân dân cấp tỉnh có những thẩm quyền gì?
Theo Điều 37 Luật tố dụng dân sự năm 2015 Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh được quy định như sau:
– Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc sau đây:
+ Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này, trừ những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 35 của Bộ luật này;
+ Yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 27, 29, 31 và 33 của Bộ luật này, trừ những yêu cầu thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 35 của Bộ luật này;
+ Tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 3 Điều 35 của Bộ luật này.
– Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 35 của Bộ luật này mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh tự mình lấy lên để giải quyết khi xét thấy cần thiết hoặc theo đề nghị của Tòa án nhân dân cấp huyện.
- Anh Nguyễn Văn A công tác tại Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh B. Để tạo điều kiện cho cán bộ công chức nâng cao trình độ, 2 năm trước, anh A đã được tỉnh cử đi đào tạo thạc sỹ tại nước ngoài bằng nguồn ngân sách của tỉnh. Tuy nhiên, sau khi kết thúc khóa học thạc sỹ, anh A đã không về nước mà ở lại nước ngoài để làm việc. Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh B đã quyết định khởi kiện anh A ra tòa án hành chính do vi phạm hợp đồng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nguồn của tỉnh. Đồng thời, Sở cũng yêu cầu anh A phải bồi thường thiệt hại cho những chi phí đào tạo mà tỉnh phải chi trả trong quá trình anh A tham gia khóa học thạc sỹ tại nước ngoài. Trường hợp này, Tòa án sẽ thụ lý giải quyết như thế nào?
Đối với trường hợp trên, để giải quyết bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính sẽ căn cứ quy định tại Điều 7 Luật tố tụng hành chính để thực hiện, cụ thể như sau:
Người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính có thể đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại do quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri gây ra.
Người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu bồi thường thiệt hại có nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ. Trường hợp cần thiết, Tòa án có thể tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác.
Khi giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính, các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và pháp luật về tố tụng dân sự được áp dụng để giải quyết.
Trường hợp trong vụ án hành chính có yêu cầu bồi thường thiệt hại mà chưa có điều kiện để chứng minh thì Tòa án có thể tách yêu cầu bồi thường thiệt hại để giải quyết sau bằng một vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Trường hợp Tòa án giải quyết cả phần yêu cầu bồi thường thiệt hại cùng với việc giải quyết vụ án hành chính mà phần quyết định của bản án về bồi thường thiệt hại bị kháng cáo hoặc kháng nghị hoặc bị Tòa án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm hủy để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại thì phần quyết định về bồi thường thiệt hại trong các trường hợp này là một phần của vụ án hành chính. Thủ tục giải quyết đối với phần quyết định về bồi thường thiệt hại bị kháng cáo, kháng nghị hoặc bị hủy để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại được thực hiện theo quy định của Luật tố tụng hành chính.
- Gia đình bà D được Ban chỉ huy quân sự huyện T giao đất ở tại Khu dân cư của cơ quan. Quá trình giao đất, Bộ chỉ huy của tỉnh cũng đã lập bản đồ quy hoạch khu dân cư ở ổn định lâu dài và tách riêng không nằm trong diện tích quốc phòng. Đồng thời, gia đình bà D đã nộp tiền hóa giá nhà ở cho Ban chỉ huy quân sự huyện. Theo quy định của Luật đất đai, gia đình bà D hoàn toàn có đủ căn cứ để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, gần đây Bộ chỉ huy quân sự tỉnh H đã có văn bản thu hồi Quyết định giao đất ở tại khu dân cư của gia đình bà D, đề nghị gia đình bà bàn giao lại đất gắn với nhà ở cho cơ quan. Bức xúc trước quyết định của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, bà D đã khởi kiện vụ việc ra Tòa án hành chính. Xin hỏi trường hợp này bà D có phải cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh yêu cầu của mình trước Tòa hay không?
Để thu thập tài liệu, thông tin phục vụ yêu cầu xét xử của Tòa án, bà D phải cung cấp các tài liệu có liên quan đến việc khởi kiện và xét xử, các giấy tờ chứng minh việc gia đình bà ở là hợp pháp và đủ điều kiện để xem xét, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, vì Điều 9 Luật tố tụng hành chính đã quy định như sau: “Các đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh như đương sự”.
- Xí nghiệp môi trường X thuộc Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Y trong quá trình xây dựng trụ sở đã lấn sang diện tích đất vườn nhà anh H. Mặc dù đã nhiều lần lên gặp trực tiếp Giám đốc xí nghiệp cũng như lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi trường nhưng họ đều không giải quyết, cho rằng việc xây dựng đã thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Gần đây, sau khi xem hồ sơ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh H, cháu anh là luật sư đã tư vấn anh nên khởi kiện ra Tòa. Tuy nhiên, anh H rất băn khoăn vì cho rằng mình là dân đen, ít hiểu biết pháp luật, bên kia là cơ quan nhà nước, kiện thì cũng chỉ là kiện củ khoai mà thôi. Việc băn khoăn của anh H có cơ sở hay không? Pháp luật quy định như thế nào về vấn đề này?
Theo quy định tại Điều 17 Luật tố tụng hành chính, trong tố tụng hành chính, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, địa vị xã hội. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính trước Tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Như vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của gia đình, anh H hoàn toàn có quyền khởi kiện vụ việc lấn đất nói trên ra Tòa án.
- Chị Vũ Thị H ký hợp đồng làm văn thư tại Sở X. Do mới nghỉ sinh con, nên gần đây chị H phải thường xuyên đi muộn về sớm, xin nghỉ phép để chăm sóc con nhỏ. Lấy lý do không đảm bảo giờ giấc, thường xuyên vi phạm nội quy làm việc của cơ quan, Giám đốc Sở đã quyết định chấm dứt hợp đồng với chị H để đưa cháu họ của mình vào làm. Bức xúc trước sự việc trên, chị H đã khởi kiện quyết định của Giám đốc Sở ra Tòa án hành chính. Xin hỏi trường hợp này Tòa án có thụ lý vụ việc hay không?
Theo quy định tại Điều 30 Luật tố tụng hành chính, các khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm:
– Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính, trừ các quyết định, hành vi sau đây:
+ Quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp luật;
+ Quyết định, hành vi của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng;
+ Quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức.
– Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống.
– Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.
– Khiếu kiện danh sách cử tri.
Như vậy, căn cứ quy định nêu trên, việc khởi kiện của chị H là hành vi mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức nên không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
- Ông Trần Văn S là Phó Chánh Văn phòng của Sở K. Do trong thời gian tham gia đảm nhiệm chức vụ, ông S đã có hành vi đưa con cháu vào làm việc tại cơ quan trái quy định và tham ô tiền công quỹ của cơ quan. Khi phát hiện vụ việc, cơ quan có thẩm quyền đã quyết định kỷ luật buộc thôi việc ông S. Sau đó, ông S đã có đơn khởi kiện ra Tòa án về quyết định kỷ luật nêu trên. Một số ý kiến cho rằng đây là quyết định mang tính nội bộ của cơ quan, nên Tòa án sẽ không thụ lý. Pháp luật quy định như thế nào về vấn đề này?
Quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với ông S ở trên là quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Căn cứ quy định tại Khoản 2, Điều 30 Luật tố tụng hành chính, Tòa án sẽ có thẩm quyền thụ lý vụ việc khởi kiện nói trên.
- UBND huyện Q ra quyết định thu hồi đất ở của gia đình ông L với lý do đây là diện tích đất do gia đình ông lấn chiếm, không có trong hồ sơ địa chính của huyện. Không đồng ý với quyết định của UBND huyện, ông L đã có đơn khởi kiện UBND huyện Q lên Tòa án tỉnh vì ông cho rằng nếu khởi kiện ra Tòa án huyện thì sẽ không đảm bảo khách quan, do trong cùng địa bàn cả. Việc khởi kiện của ông L là đúng hay sai?
Theo quy định tại Điều 31 Luật tố tụng hành chính, Tòa án cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây:
– Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước đó, trừ quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện;
– Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án đối với công chức thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó;
– Khiếu kiện danh sách cử tri của cơ quan lập danh sách cử tri trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án.
Căn cứ vào quy định ở trên, việc khởi kiện của ông L lên Tòa án nhân dân tỉnh là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với quy định pháp luật.
- Anh V là công chức phụ trách văn hóa – thông tin của xã P. Gần đây, do giao du với bạn bè xấu, anh V đã thường xuyên nghỉ việc, lao vào nghiện hút, cờ bạc. Sau khi bị Công an xã bắt quả tang việc đánh bạc, anh V đã bị Ủy ban nhân dân xã có quyết định kỷ luật buộc thôi việc. Anh V dự kiến khởi kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã vì đã buộc thôi việc trái pháp luật đối với bản thân mình. Xin hỏi trường hợp này Tòa án nào có thẩm quyền thụ lý vụ việc của anh V?
Việc khởi kiện của anh V căn cứ vào quy định tại Điều 31 Luật tố tụng hành chính, Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có cùng phạm vi địa giới hành chính với Ủy ban nhân dân xã P sẽ có thẩm quyền thụ lý hồ sơ vụ án của anh V.
- Chị H là công chức của Sở Thông tin và truyền thông tỉnh D. Gần đây, do sinh con thứ ba, sức khỏe giảm sút nên chị H phải thường xuyên nghỉ việc. Lấy lý do thường xuyên vi phạm quy chế, quy định của cơ quan, Giám đốc Sở đã có quyết định kỷ luật buộc thôi việc chị H. Xin hỏi trong trường hợp này, Tòa án nào có thẩm quyền thụ lý vụ việc nói trên?
Căn cứ quy định tại Điều 32 Bộ luật tố tụng hành chính quy định về thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh, Tòa án cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án và của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước đó. Do đó, trường hợp này Tòa án cấp tỉnh sẽ là cơ quan thụ lý giải quyết vụ việc của chị H nêu trên.
38. Trường hợp người khởi kiện có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì Tòa án phải xử lý như thế nào?
Theo quy định tại Điều 33 Bộ luật tố tụng hành chính, trường hợp người khởi kiện có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì Tòa án phải yêu cầu người khởi kiện lựa chọn cơ quan giải quyết và có văn bản thông báo cho Tòa án.
Trường hợp người khởi kiện không thể tự mình làm văn bản thì đề nghị Tòa án lập biên bản về việc lựa chọn cơ quan giải quyết. Tùy từng trường hợp cụ thể Tòa án xử lý như sau:
– Trường hợp người khởi kiện lựa chọn Tòa án giải quyết thì Tòa án thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung, đồng thời thông báo cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và yêu cầu người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Tòa án;
– Trường hợp người khởi kiện lựa chọn người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại giải quyết thì Tòa án căn cứ vào quy định tại điểm e khoản 1 Điều 123 của Luật Tố tụng hành chính trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo cho người khởi kiện.
Trường hợp hết thời hạn giải quyết khiếu nại mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng người khiếu nại không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại và có đơn khởi kiện vụ án hành chính thì Tòa án xem xét để tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung.
Trường hợp nhiều người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và tất cả những người này đều lựa chọn một trong hai cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì thẩm quyền giải quyết được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
Trường hợp nhiều người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, trong đó có người lựa chọn Tòa án giải quyết và có người lựa chọn người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại hoặc trường hợp có người chỉ khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án có thẩm quyền và người khác chỉ khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thẩm quyền giải quyết được xác định như sau:
– Trường hợp quyền lợi, nghĩa vụ của người khởi kiện và người khiếu nại độc lập với nhau thì việc giải quyết yêu cầu của người khởi kiện thuộc thẩm quyền của Tòa án, còn việc giải quyết khiếu nại của những người khiếu nại thuộc thẩm quyền của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại;
– Trường hợp quyền lợi, nghĩa vụ của người khởi kiện và người khiếu nại không độc lập với nhau thì Tòa án thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung, đồng thời thông báo cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và yêu cầu chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Tòa án.
Trường hợp người khởi kiện không lựa chọn cơ quan giải quyết thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện.
- Trường hợp chuyển vụ án cho Tòa án khác, giải quyết tranh chấp về thẩm quyền được quy định như thế nào?
Theo Điều 34 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định chuyển vụ án cho Tòa án khác, giải quyết tranh chấp về thẩm quyền như sau:
– Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm, Tòa án xác định vụ án đó không phải là vụ án hành chính mà là vụ án dân sự và việc giải quyết vụ án này thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án giải quyết vụ án đó theo thủ tục chung do pháp luật tố tụng dân sự quy định, đồng thời thông báo cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
– Trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm mà có căn cứ xác định việc giải quyết vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án khác thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án hành chính ra quyết định chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền và xoá sổ thụ lý, đồng thời thông báo cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
– Sau khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm mà có căn cứ xác định việc giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Tòa án khác thì Tòa án phải mở phiên tòa để Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ việc xét xử, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền.
– Khi xét xử phúc thẩm vụ án hành chính mà xác định vụ án thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 34 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án, quyết định sơ thẩm và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại vụ án theo quy định của pháp luật.
– Khi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hành chính mà xác định vụ án thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 34 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì Tòa án xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại vụ án theo quy định của pháp luật.
– Đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị quyết định quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 34 Luật tố tụng hành chính năm 2015 trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị, Chánh án Tòa án đã ra quyết định chuyển vụ án hành chính phải giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Quyết định của Chánh án Tòa án là quyết định cuối cùng và được gửi ngay cho đương sự có khiếu nại, Viện kiểm sát có kiến nghị.
– Chánh án Tòa án cấp tỉnh giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Tòa án cấp huyện trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Tòa án cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau; giữa các Tòa án cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân cấp cao.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giữa các Tòa án cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau, Tòa án cấp tỉnh thuộc thẩm quyền giải quyết theo lãnh thổ của các Tòa án nhân dân cấp cao khác nhau.